Tên lính kia lập tức lùi về sau mấy bước, thấy trên trán hắn không có vết sẹo, cả người lại yếu ớt bệnh tật, liền xua tay ghét bỏ:

“Mau cút đi!”

Qua được cổng thành, ta bảo A Thất dừng xe ở khách điếm Đồng Phúc, cầm lấy hành lý rồi xuống xe.

Thẩm Lãng bất ngờ giơ tay ném cho ta một miếng ngọc bội.

“Sau này nếu gặp chuyện phiền phức, có thể đến Thẩm phủ ở Thọ An Phường tìm ta.”

Ta vừa định mở miệng nói gì đó, nhưng xe ngựa đã đi xa.

Cất ngọc bội vào trong tay áo, ta xoay người rời khách điếm, bước về phía con hẻm trong trí nhớ.

Mười năm trước, phụ thân ta đi thuyền đến Kim Lăng bàn chuyện làm ăn, suốt ba tháng không có tin tức.

Năm hết Tết đến, ta và A nương cũng vào một ngày tuyết lớn như hôm nay, thu dọn hành lý, theo một thương đội lên đường đến Kim Lăng.

Ai ngờ thương đội đó muốn gom thêm hàng hóa, liền đổi tuyến đường, vòng từ nam lên bắc, đi đi dừng dừng.

Sau đó, chúng ta gặp thiên tai, tất cả mọi người bị chôn vùi trong tuyết.

May mắn thay, có một chiếc xe ngựa chở quan quyến đi ngang qua, cứu được ta và A nương—những người bị kẹt dưới gốc cây chưa bị chôn vùi hoàn toàn.

Người trong xe chính là Trần Nghiễn Chi và mẫu thân chàng.

Khi ấy, phụ thân Trần Nghiễn Chi vừa được thăng chức Đồng Tri Kim Lăng, phái người đến Sơn Đông đón mẫu tử họ vào thành.

Sau khi nghe xong câu chuyện của ta và A nương, Trần mẫu đồng ý cho hai mẹ con ta đi cùng.

Đến khi chúng ta đặt chân tới Kim Lăng, mùa xuân đã về.

A nương nhận được thư từ lâu, nói thuyền phụ thân ta đi đã gặp phải thủy phỉ, thi thể sớm đã mục rữa dưới đáy sông.

Mà trên cổng thành Kim Lăng phía trước, lúc này lại treo lơ lửng mấy cái đầu người.

Trần Nghiễn Chi lúc ấy mới mười hai tuổi, ngẩng cao đầu, miệng lẩm bẩm gọi—

“Phụ thân.”

A nương ta vội vàng bịt chặt miệng chàng, còn dặn ta chăm sóc Trần mẫu đang ngất xỉu.

Năm đó, ta mười tuổi.

Từ đó, ta và A nương an thân tại Kim Lăng, một ở lại tận mười năm.

Ta đã từng trách Trần Nghiễn Chi.

Trách chàng dễ dàng hứa hẹn, nhưng lại không giữ lời.

Trách chàng do dự giữa Thôi Dao và ta, mãi không dứt khoát. M”ộ[t/ C:hé.n Ti/ê]u S”ầu,

Ta thậm chí còn trách bản thân, vì sao ta chỉ biết ủ rượu, bán rượu?

Nhưng rồi ta nhớ lại năm ta sáu tuổi, phụ thân và A nương uống ngụm rượu ong đầu tiên do ta ủ, gương mặt lộ ra nụ cười vui vẻ.

Chỉ cảm thấy—

Chúng ta, chẳng qua là không cùng đường nữa rồi.

Nhìn cánh cổng sân viện vẫn chẳng đổi thay so với ký ức, ta giơ tay nhẹ gõ.

Bên trong lập tức vang lên những giọng nói non nớt.

“Đến đây, đến đây!”

“Mau mở cửa, mau mở cửa! Chắc chắn là Tỷ tỷ Điềm Nhi trở về rồi, lần này lại có món ngon gì đây?”

Cánh cửa mở ra, ta nhìn ba đứa trẻ sáu bảy tuổi trước mặt, sững người.

Phía sau vang lên một giọng nói ngập ngừng:

“Vãn Vãn tỷ?”

“Vậy ra, bọn chúng đều là trẻ mồ côi muội nhận nuôi?”

Ta chỉ vào ba đứa trẻ, kinh ngạc nhìn Diệp Điềm Nhi.

“Phải, Vãn Vãn tỷ.

Ba năm trước, sau khi bà nội muội qua đời, căn nhà bị bá bá cướp mất, muội không còn cách nào khác mới nhớ đến ngôi nhà của tỷ.

Nhưng khi vào đây, muội phát hiện sân sau bị thủng một lỗ lớn, bọn chúng trốn co ro trong góc tường.”

Điềm Nhi cúi đầu đứng trước mặt ta, như một đứa trẻ bị phạt đứng.

Ba đứa trẻ phía sau cũng bắt chước muội ấy, không dám nhìn ta.

Điềm Nhi giờ cũng chỉ mới mười ba tuổi, bằng tuổi ta khi vừa mất mẫu thân.

Ta còn chưa kịp nói gì, Điềm Nhi bỗng như sực nhớ ra điều gì, lập tức chạy về phía hầm rượu.

“Vãn Vãn tỷ, chờ muội một lát, muội về ngay!”

Chốc lát sau, ta nắm chặt vò rượu trong tay, kinh ngạc nhìn Điềm Nhi.

“Muội tìm thấy ở đâu?”

Từ khi biết nhận thức, ta đã thường xuyên nghe A nương nhắc đến Dao Trì Xuân.

Sau này ta mới biết, đó là tên rượu tổ truyền của nhà ngoại, nhưng đến đời mẫu thân thì phương thuốc đã thất lạc.

Điềm Nhi chỉ vào cây ngọc lan trong sân:

“Muội tìm thấy dưới gốc cây đó.

Năm ngoái, Lâm An có một trận mưa lớn, mưa xối xuống làm lộ cả rễ cây.

Muội nhìn thấy dưới rễ cây có chôn một hũ rượu và một chiếc hộp.

Muội nhận ra trên vò có khắc ba chữ Nữ nhi hồng, trong hộp chính là thứ này.

Muội nghĩ đây chắc chắn là đồ người nhà tỷ để lại nên đã cất đi.

May mà chờ được đến khi tỷ về!”

Đúng rồi, mẫu thân chưa bao giờ nói dưới gốc cây ngọc lan có giấu nữ nhi hồng, có lẽ chính người cũng không biết phương thuốc bị ngoại tổ phụ chôn ở đó.

Ta xúc động đến mức rơi nước mắt, như thể mẫu thân biết ta đã trở về mà gửi tặng món quà này.

Điềm Nhi lúng túng nhìn ta:

“Vãn Vãn tỷ, sao tỷ lại khóc?”

“Không sao, chỉ là ta quá vui thôi.”

Ta xoa đầu muội ấy, hỏi: Mộ:t/ C.hé]n T:iê”u S.ầ/u

“Bình thường muội sống bằng gì?”

Điềm Nhi lại nở nụ cười, đôi mắt tròn xoe như nho đen lấp lánh ánh sáng.

“Muội mỗi ngày đều ra bờ sông chờ, thấy ai giặt quần áo thì hỏi họ có cần thuê người giúp không.

Muội chỉ lấy một văn tiền thôi.”

Muội ấy bấm ngón tay tính xem mỗi ngày kiếm được bao nhiêu, lại bĩu môi phàn nàn rằng những nương tử ở Trường Lạc phường quá tính toán, một văn tiền mà bắt giặt đến mấy chậu đồ.

Nhìn mười đầu ngón tay trắng bệch, sưng phồng của muội ấy, ta thở dài.

“Từ giờ theo ta đi.”

“Á?”

Điềm Nhi ngẩn ngơ nhìn ta, dường như chưa hiểu ta nói gì.

Ta xoay người mở bọc hành lý, lấy ra số điểm tâm còn lại, vẫy tay gọi ba đứa nhỏ.

Điềm Nhi vội vàng chạy theo sau, truy hỏi:

“Vãn Vãn tỷ, tỷ vừa nói gì cơ?”

“Ta nói, từ giờ theo ta làm việc đi.”

Ta nhặt một miếng điểm tâm, nhét vào miệng muội ấy.

“Ta muốn mở tửu lâu lớn nhất Lâm An.”

Ba ngày sau, ta bỏ ra tám trăm lượng mua lại tửu lâu cao nhất bên hồ Tây.

Cùng Điềm Nhi bận rộn mấy ngày liền mới tuyển đủ tiểu nhị, sau đó ta dốc lòng nghiên cứu công thức rượu Dao Trì Xuân.

Trải qua hàng chục lần thất bại, cuối cùng ta cũng thành công.

Ngày bước ra khỏi hầm rượu, mùi rượu nồng nàn đến mức làm ba con chó con say lăn quay.

Ta rót một vò đặt trước bài vị phụ mẫu.

“A nương, một ngày nào đó, hương rượu Dao Trì Xuân sẽ lan khắp Đại Lương.”

Hôm treo tấm biển “Xuân Bất Vãn”, đã là tháng ba, bên bờ Tây Hồ liễu xanh đâm chồi.

Tiếng pháo nổ vang, danh tiếng Dao Trì Xuân lan truyền khắp thành Lâm An chỉ sau một đêm.

Hôm đó, ta nhận được một phần lễ mừng, người gửi đề tên Thẩm phủ, Thọ An Phường.

Bận rộn mấy ngày liền, ta không kịp mở ra xem Thẩm Lãng đã gửi thứ gì.

Mãi đến khi kiệt sức ngã xuống giường, ta vô tình nhìn thấy miếng ngọc bội treo bên màn, do dự hồi lâu rồi vẫn bò dậy, chọn hai vò rượu, mở cửa định đem đến Thọ An Phường.

“Coi như là đáp lễ, cũng là để cảm ơn hắn đã chăm sóc ta suốt ba tháng.”

Ta lầm bầm trong miệng, hoàn toàn không để ý người phía trước.

“Vậy ta không khách sáo nữa.”

Thẩm Lãng vươn tay nhận lấy vò rượu từ tay ta, lúc này ta mới hoàn hồn.

“Ngươi, ngươi làm sao biết ta ở đây?”

Hắn ung dung ngồi xuống lan can cầu đá, uống một ngụm rượu rồi mới chậm rãi nhìn ta:

“Danh tiếng của Dao Trì Xuân đã lan ra ngoài thành Lâm An, lúc này ngươi mới nhớ đến ta, còn trách ta tìm đến sao?”

“Ta tưởng ngươi đã đi rồi.”

Ta nhẹ giọng đáp, mắt nhìn mặt sông lấp lánh dưới ánh trăng, không nhịn được mà đung đưa hai chân.

Từ ngày chúng ta đặt chân vào Lâm An, đã ba tháng trôi qua.

Ba tháng này, quan phủ Lâm An có vẻ đặc biệt bận rộn, ngày nào cũng lùng bắt người, náo loạn không ngừng.

“Còn thiếu một chuyện cuối cùng.”

Thẩm Lãng đột nhiên giơ vò rượu lên, khóe môi cong thành nụ cười:

“Dao Trì Xuân? Đúng là tiên tửu giáng trần, uống xong còn vương vấn dư hương.”

“Nhưng ta đoán, ngươi chắc chắn chưa mở quà ta tặng.”