Dù sức lực có thể chẳng đáng gì, nhưng ta vẫn muốn làm một chút gì đó.”

“Ngươi làm rất tốt.” Tôi đáp.

Ngừng một chút, tôi bổ sung, “Nhưng ta hy vọng ngươi có thể sống tốt.”

“Ngươi đang quan tâm ta sao? Ta rất vui.”

Cố Thời An còn vẽ thêm một biểu cảm khuôn mặt cười.

Đọc câu đó, tôi suýt ngất.

Xem ra thời gian tôi cố ý giữ khoảng cách chẳng có tác dụng gì.

Đúng là “não yêu đương” hết thuốc chữa.

9

Tôi và Cố Thời An lại tiếp tục trò chuyện, như thể chưa từng gián đoạn.

Tôi nhận ra gần đây, chữ của cậu ngày càng nhỏ, chen chúc từng góc giấy, như thể đang tiết kiệm từng trang.

Cuốn nhật ký này khá dày, dù chúng tôi viết qua lại đã vài tháng, vẫn mới dùng hết một nửa.

“Tháng sau ta sẽ tốt nghiệp và trở về nhà.

Đã lâu không gặp em gái ta, trước đây ở nhà lúc nào cũng thấy nó phiền, nhưng lâu ngày không gặp lại thấy nhớ.

Không biết con bé có trưởng thành hơn chút nào không.”

Tôi biết Cố Thời An có một cô em gái, tầm mười bốn, mười lăm tuổi, tính cách còn nghịch ngợm hơn cả cậu hồi nhỏ, như một tiểu bá vương.

Bên tôi cũng bắt đầu kỳ nghỉ.

Dì tôi gọi điện, bảo tôi về nhà xem mắt.

“Cháu cũng đâu còn trẻ nữa.

Người ta điều kiện rất tốt, cũng vừa ý cháu rồi, đi gặp một lần đi.”

Tôi định từ chối, nhưng dì lại lôi chuyện của mẹ tôi ra.

“Mẹ cháu mất rồi, dì dượng phải có trách nhiệm lo cho cháu, nếu không người ngoài nhìn vào lại nghĩ chúng ta không để tâm đến cháu.”

Câu nói này khiến tôi cứng họng, không thể từ chối, đành miễn cưỡng đồng ý đi gặp mặt.

Tôi nói chuyện mình đi xem mắt cho Cố Thời An nghe.

Cậu ấy đáp lại với giọng có chút châm chọc.

“Thì ra một trăm năm sau vẫn còn thịnh hành hôn nhân sắp đặt à? Bên ta bây giờ đều đề cao tình yêu tự do, hôn nhân sắp đặt chẳng bao giờ có kết cục tốt.”

Tôi cười bất đắc dĩ.

“Ta chỉ đi gặp mặt ăn bữa cơm thôi, đâu phải đi cưới người ta.”

“Ồ.”

10

Buổi xem mắt, người đàn ông tỏ ra lịch sự, nhưng câu đầu tiên lại khiến tôi nhíu mày.

“Cô là giáo viên đúng không? Nghề nghiệp cũng ổn, truyền thống, ổn định, không giống mấy loại phụ nữ lộn xộn ngoài kia.”

“Sau này có con, cô cũng có thể đảm nhận việc dạy dỗ chúng. Tôi không đòi hỏi nhiều, hai trai một gái là đủ. Tôi hy vọng cô có thể chăm lo gia đình, phụ nữ thì nên ở nhà làm hậu phương, để đàn ông tập trung gây dựng sự nghiệp.”

Tôi cố gắng nhịn, nhưng nghe đến đây thì không thể chịu nổi nữa.

Tôi cầm cả bình nước bên cạnh dội thẳng lên đầu anh ta.

“Ai không biết lại tưởng anh vừa từ thời nhà Thanh chui lên!”

Mặt người đàn ông tối sầm lại.

Tại trường, tôi kể chuyện đi xem mắt với các đồng nghiệp trong phòng giáo viên.

Thầy Lâm đột nhiên lại gần, trêu chọc tôi.

“Cô Thẩm, cô thấy tôi thế nào? Không thì chúng ta tạm bợ với nhau đi?”

Tôi nhìn mái tóc bóng dầu của thầy, định nói rồi lại thôi.

“Hay là thôi đi.”

Thầy Lâm có chút thất vọng.

Cố Thời An hỏi tôi buổi xem mắt thế nào.

Tôi kể lại toàn bộ câu chuyện, cậu ấy tỏ ra rất vui.

“Đúng là làm tốt lắm. Ta đã nói rồi, hôn nhân sắp đặt chẳng ra gì.

Trường ta sau khi bỏ lệnh cấm nữ sinh cũng đã thu nhận rất nhiều nữ sinh ưu tú.

Bây giờ ai cũng ủng hộ nam nữ bình đẳng, phụ nữ cũng có thể gánh vác nửa bầu trời.”

Tôi bắt ngay từ khóa trong lời cậu ấy.

“Thế ngươi có nữ sinh nào ngưỡng mộ không?”

Tôi tính ra, Cố Thời An đã hai mươi hai tuổi, thời đó độ tuổi này gia đình chắc cũng đang lo chuyện hôn nhân rồi.

“Chúng ta đều chỉ là tình bạn trong sáng.

Cha mẹ ta có viết thư nhắc nhở, bảo ta sau khi tốt nghiệp thì tìm một người phù hợp, sớm kết hôn và ổn định gia đình.”

Cố Thời An đáp lời có phần mơ hồ.

“Ta bảo không cần vội, cách mạng còn chưa thành công, làm gì có thời gian để nghĩ đến chuyện tình cảm.”

“Đúng vậy.” Tôi bật cười.

“Tư tưởng giác ngộ của ngươi cao thật.”

“Đương nhiên rồi, không thấy ta được ai dạy sao?” Cậu ấy tự đắc.

Hôm sau, tôi mở nhật ký ra, thấy một tin nhắn mới.

“Hôm nay là ngày 18 tháng 9 năm Dân Quốc 20.

Ta nghe tin nói rằng vùng Đông Bắc đã thất thủ.”

“Đường ray bị phá, tàu hỏa ngừng chạy, lòng người hoang mang.

Bức thư ta gửi cho gia đình từ mấy ngày trước đến giờ vẫn chưa có hồi âm, nên ta đang vội vã về nhà trong đêm.”

Sau khi về nhà, mấy ngày liền tôi không thấy tin nhắn mới từ Cố Thời An.

Tôi bồn chồn lo lắng, mỗi ngày đều mở nhật ký ra kiểm tra rồi lại thất vọng đóng lại.

Tôi cố thử nhắn hỏi cậu.

“Cố Thời An, ngươi có ổn không?”

“Đã xảy ra chuyện gì sao?”

Lần trước, dù là cố ý thử tôi, cậu ấy cũng nhanh chóng trả lời.

Nhưng lần này, không có một hồi âm nào.

Mãi đến ngày thứ năm, cậu mới trả lời.

Trên trang giấy chỉ có một dòng.

“Thẩm Thanh Thanh, ta không còn nhà nữa.”

11

Tôi giật mình, tim chợt thắt lại.

“Đã xảy ra chuyện gì?”

Cố Thời An kể lại những gì đã xảy ra trong thời gian qua, dù cố gắng che giấu cảm xúc, nét chữ run rẩy của cậu vẫn hiện rõ.

Sau khi nhận thấy gia đình mãi không hồi âm, cậu quyết định trở về nhà.

Đường sắt ngừng hoạt động, chiến tranh khắp nơi, cậu phải vất vả lắm mới về được.

Khi vừa đến cổng nhà họ Cố, trước mắt cậu là một khung cảnh hoang tàn.

Thi thể cha cậu nằm ngay trước cửa chính, trên cơ thể đầy vết đạn.

Mẹ cậu bị treo ngược trên xà nhà, bụng bị rạch toạc, máu khô đọng đầy đất.

Cố Thời An sụp đổ ngay tại chỗ.

Cậu tìm được một người hầu còn sống sót trong nhà, người đó khóc lóc kể lại sự thật.

Hóa ra từ một năm trước, việc kinh doanh của gia đình cậu đã bị một nhóm thương nhân Nhật Bản để ý.

Cha cậu có nguyên tắc của mình, kiên quyết không hợp tác với bọn họ.

Ban đầu, chúng chỉ giở vài trò quấy phá nhỏ.

Nhưng sau sự kiện chấn động, bọn chúng dẫn lính Nhật bao vây nhà họ Cố, ép cha cậu giao ra kho dược liệu.

Cha cậu thà chết cũng không khuất phục, liền bị chúng bắn chết ngay tại chỗ.

Mẹ cậu nhìn thấy tất cả, trong tuyệt vọng đã treo cổ tự tử.

Nhưng bọn chúng vẫn không tha, còn rạch bụng bà một cách tàn bạo.

Người hầu nói rằng mẹ cậu đã mang thai được vài tháng, định đợi Cố Thời An về để báo tin mừng.

“Tôi nghe mẹ ngươi đã đưa em gái ngươi ra ngoài bằng cửa sau trước khi sự việc xảy ra.”

Tôi run rẩy hỏi: “Em gái ngươi thì sao?”

“Chết rồi.”

Cố Thời An tìm khắp nhà không thấy em gái, liền ra ngoài phố với chút hy vọng mong manh.

Khi cậu đến một con hẻm nhỏ, nhìn thấy những thi thể nằm la liệt, lý trí của cậu hoàn toàn sụp đổ.

Em gái mà cậu yêu thương nhất, chỉ mới mười lăm tuổi, thân thể không một mảnh vải che, đôi mắt mở to, nhìn chằm chằm lên bầu trời xám xịt.

Những vết thương trên người cô bé khiến người ta không dám tưởng tượng những gì cô phải chịu trước khi chết.

“Nó mới chỉ mười lăm tuổi thôi! Một lũ cầm thú không bằng!”

Nét chữ của Cố Thời An đâm xuyên vào tim, từng chữ như thấm máu và nước mắt.

“Tất cả là lỗi của ta, là lỗi của ta.”

Cậu lặp đi lặp lại câu này.

“Nếu ta về sớm hơn thì đã không như vậy.

Tại sao ta phải sống sót một mình trên thế gian này?”

Dù biết lịch sử tàn khốc, nhưng khi đọc những dòng chữ này, tôi vẫn thấy đau đớn đến không thở nổi.

Không dám tưởng tượng nỗi đau mà Cố Thời An đang phải chịu đựng.

Nước mắt tôi rơi xuống trang giấy lúc nào không hay.

Khi tay tôi chạm vào, tôi nhận ra trang giấy vốn đã có dấu ẩm.

Khi viết những dòng này, Cố Thời An chắc chắn cũng khóc như mưa.

Những giọt nước mắt, dường như vượt qua dòng thời gian trăm năm, hòa quyện với nhau.

12

Cố Thời An mang thi thể em gái về nhà, tự mình mai táng cả gia đình.

Cậu rơi vào trạng thái suy sụp trong một thời gian dài.

Tôi cố gắng tìm cách an ủi, động viên cậu đứng lên, nhưng không có tác dụng.

Tôi hiểu cậu, vì ai gặp chuyện như vậy cũng khó mà chấp nhận.

Khi nhỏ, tôi từng quỳ trước linh cữu của mẹ, cũng cảm thấy như cả thế giới đã bỏ rơi mình.

Điều may mắn của tôi là tôi sống trong một thời đại hòa bình.

Một buổi chiều, Cố Thời An cuối cùng đã lấy lại tinh thần.

Trên trang nhật ký mới, cậu viết:

“Thẩm Thanh Thanh, ta quyết định nhập ngũ.”

13

Lòng tôi nặng trĩu, nhưng không ngạc nhiên.

Với tính cách của Cố Thời An, cậu nhất định sẽ chọn con đường này.

Cậu là người có lý tưởng, có hoài bão, không cam chịu, lại còn mang trong mình lòng căm hận muốn báo thù cho gia đình.

Tôi biết con đường này sẽ đầy gian khổ và nguy hiểm, chỉ cần sơ sẩy là mất mạng trên chiến trường.

Nhưng tôi không thể ngăn cản cậu.

Cuối cùng, tôi chỉ có thể viết:

“Cố Thời An, ta chỉ hy vọng ngươi bình an.”

Bình an, là điều xa xỉ nhất trong thời đại ấy.

14

“Năm Dân Quốc 22, đây là lần đầu tiên ta ra chiến trường. Viên đạn sượt qua tai ta, thật may mắn không sao. Ta nghĩ, có lẽ cha mẹ và em gái đang ở trên trời phù hộ cho ta.”

“Năm Dân Quốc 23, tháng Mười, nghe nói đội quân chúng ta sẽ tiến về phương Bắc hội quân, con đường phải đi rất dài.”

“Trong đội có rất nhiều đứa trẻ còn nhỏ hơn ta, phần lớn đều là trẻ mồ côi. Gia đình bọn chúng gần như đều đã mất trong chiến tranh. Nhưng ý chí của chúng còn kiên cường hơn ta nhiều, khiến ta tự thấy hổ thẹn.”

“Chúng ta tiến đến vùng núi tuyết cao hơn bốn nghìn mét so với mực nước biển. Bút máy của ta bị đông cứng, mỗi lần muốn viết, ta phải giữ trong lòng ngực rất lâu, mới miễn cưỡng viết được một hai chữ.”

“Trong đội có một nữ binh lấy ra một ít ớt khô. Chúng ta mỗi người ngậm một chút trong miệng, hóa ra lại khá hiệu quả.”

“Bọn họ hỏi ta, tại sao mỗi khi nghỉ ngơi, ta lại ngồi viết viết vẽ vẽ trong cuốn sổ này. Ta nói ta đang viết nhật ký. Bọn họ cười bảo ta đang che giấu, chắc là viết thư tình cho ai đó.”

Nét chữ của Cố Thời An lúc đậm lúc nhạt, rõ ràng viết rất khó khăn.

“Năm Dân Quốc 24, ngày 10 tháng 7.”

“Thẩm Thanh Thanh, ta 27 tuổi rồi, bằng tuổi ngươi.”

Khi đọc đến câu này, tôi có cảm giác như thời gian đã đảo lộn.

Trong dòng thời gian của cậu ấy, chúng tôi đã quen biết nhau rất lâu rồi.

Lật lại những trang nhật ký trước, tôi thấy Cố Thời An lúc 17 tuổi, chuyện gì lớn nhỏ cũng muốn kể cho tôi biết.

Nhưng Cố Thời An ở tuổi 27 lại học cách lược bỏ những điều nặng nề, rất ít khi nhắc đến những khó khăn trên đường hành quân, chỉ đôi khi kể một hai câu chuyện vui.